Củng cố và canh tân tình huynh đệ linh mục trong giáo phận (bài cuối)
7.
ĐIỂM NHẤN THỰC HÀNH
XÂY DỰNG TÌNH HUYNH ĐỆ LINH MỤC BẰNG NIỀM VUI VÀ NỤ CƯỜI
Hằng năm, khi mùa đông chấm dứt, khi những mây đen đã tan hết thành mưa và rơi xuống đất, khi mặt trời bắt đầu nở nụ cười với vạn vật bằng những tia sáng tươi vui và ấm ám, thì mọi người cũng mỉm cười với nhau, trở nên gần gũi và thân tình với nhau hơn. Với niềm vui trong lòng, người ta trở nên cởi mở và dễ dàng nối kết với nhau, coi nhau như anh em một nhà, sẵn sàng xí xoá mọi bất hoà. Nụ cười nở rộ ở đâu thì ở đó sẽ có nhiều người tập họp lại. Trong cuộc sống bon chen vật lộn hằng ngày với canh cánh nỗi lo cơm áo gạo tiền, nụ cười ngày càng trở nên hiếm hoi như nụ hồng trong mùa nắng hạn. Người ta mong sao có được những giây phút thoải mái với những bạn bè thân thiết, để mặc cho những câu chuyện nhiều khi không đầu không đuôi, từ con cà con kê cho đến con dê con ngỗng, cứ thế mà nối tiếp nhau, hết người này đến người khác tham gia, bầu khí trở nên sôi động bằng những tiếng cười rộn ràng như pháo tết. Khi cuộc gặp gỡ đã trôi qua, người ta thấy đọng lại nơi mình một kỷ niệm khó quên, những nỗi nhớ không tên, nhưng có sức xây dựng tình nghĩa anh em. Tình huynh đệ giữa các linh mục trong cùng một giáo phận không chỉ được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, không chỉ được hướng dẫn bằng giáo huấn của Hội Thánh, nhưng còn được xây dựng bằng niềm vui và những nụ cười.
Trong một xã hội nặng về kỹ thuật khiến con người ngày càng trở nên như những cái máy, người ta muốn tìm lại cho mình một khuôn mặt nhân bản hơn, nên đã định nghĩa con người là một con vật biết cười, vì cười là nét đặc trưng của con người khác với các sinh vật khác. Và nếu theo mạc khải Thánh Kinh con người là hình ảnh của Thiên Chúa, thì nụ cười cũng là một nét đặc biệt trong hình ảnh ấy, nụ cười cũng phát xuất từ Thiên Chúa.
1. NỤ CƯỜI CỦA THIÊN CHÚA
Trong tác phẩm Thiên Chúa và Trần thế, ký giả Peter Seewald đã hỏi ĐHY Joseph Ratzinger như sau: “Chúa luôn tỏ ra nghiêm nghị, hay Ngài cũng có khi hài hước?” Đức Hồng Y trả lời: “Tôi tin rằng Ngài nhiều hài hước. Đôi khi Ngài đẩy nhẹ ta một cái và nhắc nhở: Này con, đừng xem trọng mình! Hài hước thực ra là một thành phần trong bức tranh tươi vui của thụ tạo. Nếu để ý, ta thấy Chúa nhiều lúc trong cuộc sống cũng muốn ta đừng quan trọng hoá vấn đề, hãy hạ mình xuống, hãy nhìn khía cạnh tươi vui và đừng quên mặt hài hước của cuộc sống”. [1]
Thiên Chúa là nguồn vui của nhân loại, chính Ngài ban tặng niềm vui và nụ cười cho con người, như lời bà Xara đã nói: “Thiên Chúa đã làm cho tôi cười” (St 21,6). Đức Kitô, hình ảnh tuyệt vời của Thiên Chúa cũng là con người của niềm vui, vì Ngài đã đến trần gian để loan báo tin vui của ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại. Khi còn trong dạ mẹ, Đức Kitô đã đem lại niềm vui cho gia đình ông Dacaria và bà Elisabeth, đã khiến cho Gioan Tiền Hô nhảy mừng trong lòng mẹ. Ngày Ngài giáng sinh, các Thiên thần đã loan báo tin vui cho các mục đồng thành Bêlem.
Kinh Thánh không chỗ nào nói Chúa Giêsu cười, nhưng qua những câu chuyện do Tin Mừng thuật lại chúng ta có thể suy đoán rằng Ngài cũng vui cười và có óc khôi hài. Nếu Ngài không nở nụ cười hồn nhiên hiền hậu trên môi thì chắc chắn các em thiếu nhi không dám đến với Ngài thường xuyên như thế. Ngài sẵn sàng đến chia sẻ niềm vui ngày cưới với một gia đình tại Cana và đã hào phóng làm phép lạ đầu tiên biến sáu chum nước lã thành rượu ngon hảo hạng để tiệc cưới được tràn đầy hân hoan. Qua những phép lạ chữa lành bệnh tật, Ngài đem lại niềm vui cho những người đau khổ bất hạnh. Bằng sự tha thứ, Ngài phục hồi niềm vui cho những lương tâm bị tội lỗi đè nặng.
Trong giáo huấn của Ngài, chúng ta thường gặp thấy những chủ đề về niềm vui như tiệc cưới, niềm vui của người chăn chiên tìm lại được con chiên bị lạc, của người đàn bà tìm lại được đồng bạc bị mất, của người cha gặp lại đứa con hoang đàng… Ngài cũng có nhiều câu nói dí dỏm như: “Mù dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố”. Nhiều khi Ngài cũng khôi hài, chẳng hạn khi đến nhà con gái của ông Giairô, trưởng hội đường, thấy người ta thổi kèn đám ma trước xác chết của em, Ngài nói: “Em bé không chết đâu, nó ngủ đấy thôi”, khiến nhiều người cười Ngài.
Khi Thánh Phêrô hỏi Ngài rằng khi bị anh em xúc phạm thì phải tha thứ bao nhiêu lần, có phải đến 7 lần không, thì Ngài đã trả lời với lối chơi chữ thật sâu sắc mà cũng rất vui: “Thầy bảo anh: không phải tha thứ đến 7 lần, mà đến 70 lần 7”. Trong vụ án người phụ nữ bị các luật sĩ và biệt phái tố cáo phạm tội ngoại tình, Ngài bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội thì hãy ném đá chị ấy trước đi”. Và thế là mấy ông âm thầm rút lui, từ người già nhất đến người trẻ nhất. Thật là buồn cười.
Trong Bữa Tiệc Ly, khi Ngài nói với các môn đệ rằng đã đến giờ họ phải chiến đấu, một cuộc chiến đấu thiêng liêng, với kiểu nói tượng trưng: “Ai chưa có gươm thì hãy bán áo đi mà mua” (Lc 22,36); các môn đệ không hiểu ý Ngài nên đã thưa: “Lạy Chúa, đã có hai thanh gươm đây” (c. 38). Ngài liền bảo: “Đủ rồi!” (c. 38). Theo cách giải thích của các nhà chú giải Thánh Kinh, hai chữ “đủ rồi” không có ý nói về hai thanh gươm, nhưng có ý nói về sự ngu dốt của các môn đệ: “Đủ rồi sự ngu dốt của các anh!” hoặc: “Thôi đủ rồi! Đừng chậm tiêu như vậy nữa!” Từ lâu nay Ngài vẫn dạy sự hiền lành, tha thứ, không chống cự lại với người khác, chứ có bao giờ Ngài dạy dùng bạo lực đâu. Thế mà đến giờ phút ấy các môn đệ vẫn không hiểu lời dạy của Ngài, thậm chí Phêrô còn mang gươm vào vườn Giêtsêmani và chém đứt tai tên đầy tớ thượng tế, khiến Ngài phải quở trách: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26,52).
2. NIỀM VUI ĐỜI LINH MỤC
Linh mục là con người theo chân Đức Kitô, và trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, vì vậy linh mục cũng phải là con người của niềm vui, vừa cảm nghiệm được niềm vui trong cuộc đời linh mục, vừa thi hành tác vụ linh mục để đem lại niềm vui cho kẻ khác.
Trong những ngày vừa qua các mạng thông tin có giới thiệu một cuốn sách nhan đề là Why priests are happy?, của Đức ông Rossetti, do Nhà Xuất bản Ave Maria Press phát hành ngày 12-10-2011, trong đó tác giả cho thấy các linh mục nói chung thuộc nhóm người hạnh phúc nhất trong xã hội, mặc dù trong những thời gian gần đây có một số linh mục bị tố cáo về tội lạm dụng tình dục trẻ em, nhưng đó chỉ là con số nhỏ giữa một đa số linh mục đang sống hết mình với ơn gọi và cảm thấy thực sự hạnh phúc. Chỉ vì tư lợi cá nhân và mục tiêu riêng, một số người và một số báo chí đã thổi phồng chuyện các linh mục lạm dụng tình dục trẻ em, nhưng lại cố tình bỏ quên con số rất lớn các linh mục thánh thiện, đạo đức khác.
Tác giả của quyển sách là một nhà tâm lý chuyên sâu nên những nhận định của ông có một giá trị đáng kể. Trả lời phỏng vấn của phóng viên Geneviere Pollock của Hãng Thông tấn Zenith, tác giả nói rằng đã có một số nghiên cứu ở Mỹ trong vài năm qua với các phát hiện chính xác như sau: khoảng 90% các linh mục nói rằng họ hạnh phúc. Trong nghiên cứu của tác giả, tỉ lệ này lên đến 92,4%.
Các linh mục là những người hạnh phúc nhất bởi vì họ ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và sai đi rao giảng Tin Mừng. Trong cuộc đời thường ai cũng cảm thấy sung sướng khi đem tin vui đến cho kẻ khác, phương chi đó là tin vui về ơn tha thứ và tình thương của Thiên Chúa. Các linh mục hạnh phúc vì họ thoát ly mọi ràng buộc của cuộc đời trần thế để hết tình theo đuổi lý tưởng. Cuộc đời thật có ý nghĩa và tràn đầy hạnh phúc khi có một lý tưởng để theo đuổi, phương chi đó là lý tưởng về việc xây dựng Nước Trời. Các linh mục cảm thấy hạnh phúc vì bên cạnh mình, chung quanh mình, đi trước và đi sau mình, có những anh em cùng chia sẻ lý tưởng ấy với mình và cùng đồng hành, nâng đỡ mình. Đó là niềm vui của tình huynh đệ linh mục. Bất kỳ ở đâu, khi gặp một linh mục, cho dù chưa hề quen biết, ta vẫn cảm thấy thật gần gũi và thân thương như thể đã quen nhau từ lâu: tay bắt mặt mừng, hỏi han đủ chuyện.
Huấn thị của Bộ Tu sĩ về Đời sống Huynh đệ trong Cộng đoàn Congregavit nos in unum Christi amor, số 28, đã dạy: “Cuối cùng, chúng ta không được quên rằng sự bình an và hoan lạc trong đời sống chung là những dấu chỉ của Nước Thiên Chúa. Niềm vui sống cả giữa những khó khăn gặp phải trên hành trình thiêng liêng và nhân bản, và cả giữa những phiền muộn hằng ngày cũng đã là một phần của Nước Trời… Tình huynh đệ không có niềm vui là tình huynh đệ đang chết, sớm muộn các thành viên sẽ bị cám dỗ đi tìm ở nơi khác điều mà họ không thể tìm thấy trong cộng đoàn của mình. Một tình huynh đệ đầy niềm vui là ân huệ từ trên ban cho anh em, chị em, là những người biết cầu xin và biết chấp nhận nhau, phó thác cho đời sống huynh đệ, tin tưởng vào hành động của Chúa Thánh Thần. Do đó, lời Thánh vịnh đã được ứng nghiệm: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau… Nơi đây ân huệ Chúa ban, chính là sự sống chứa chan muôn đời” (Tv 132,1-3)…
Chứng từ niềm vui là sự lôi cuốn mãnh liệt vào đời sống tu trì, là nguồn phát sinh những ơn gọi mới và khích lệ bền đỗ”.
Nếu người ta nói: “Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn”, thì người ta cũng có thể nói như vậy về các linh mục: “Một linh mục buồn là một linh mục đáng buồn”, vì không thu hút được ai. Cũng như một đoá hoa nở ra và quyến rũ người chiêm ngắm thế nào thì niềm vui nở trên khuôn mặt một linh mục cũng có sức lôi cuốn người ta đến với ngài để ngài dẫn đưa họ đến với Thiên Chúa như thế.
3. XÂY DỰNG TÌNH HUYNH ĐỆ LINH MỤC BẰNG NIỀM VUI VÀ NỤ CƯỜI
Tình huynh đệ linh mục trở nên mặn nồng ấm áp không những nhờ những niềm vui thiêng liêng do đức ái mục vụ đem lại, mà còn nhờ những nụ cười. Cười là một đặc tính riêng biệt của con người, đến độ có người đề nghị đưa ra một định nghĩa mới về con người: “con người là một con vật biết cười”, như trên đây chúng ta đã nói. Nơi con người, nụ cười là dấu ấn của Thiên Chúa. Con người là loài duy nhất mà Thiên Chúa đã phú ban cho cái quyền lực của tiếng cười. Súc vật không biết cười. Và khi con người trở nên sói dữ đối với nhau thì họ không còn cười nữa (R. Choin).
Ngoài ra, tiếng cười mang xã hội tính: ai bắt đầu mỉm cười sẽ tạo được hạnh phúc quanh mình và nụ cười sẽ trở lại với người ấy qua nụ cười của những người xung quanh. Vì thế, Đức Hồng y Suenens đã nói: “Mỉm cười, đó là nhìn người khác với đôi mắt Thiên Chúa, là một tia sáng phát xuất từ khuôn mặt Thiên Chúa và nói với người khách lạ rằng họ đã được nhận biết và chấp nhận làm anh em với ta”. Vì tiếng cười là của riêng con người và có sức tác động lên những người chung quanh, nên nó mang tính nhân bản và văn hoá, có sức cải hoá và xây dựng con người, đồng thời góp phần xây dựng và tô điểm đời sống chung.
3.1. Tính nhân bản và văn hoá của óc khôi hài và những nụ cười
Không phải ai cũng biết khôi hài, nhưng dường như ai cũng thích khôi hài. Tờ báo nào cũng có mục vui cười và ngay cả có những tờ báo dành hoàn toàn cho những chuyện cười, chẳng hạn tờ Tuổi Trẻ Cười. Chương trình văn nghệ nào cũng có những mục hài, và đây thường là những mục ăn khách nhất. Hầu như gia đình Việt Nam nào, cả ở trong nước lẫn ở nước ngoài, cũng đều có những băng hay đĩa ca nhạc hài hay kịch hài. Khi có một băng hay đĩa hài nào mới ra, nhất là do những nghệ sĩ hài nổi tiếng diễn xuất, người ta đổ xô đi mua. Người ta xem đi xem lại nhiều lần các chương trình hài mà vẫn không thấy chán. Những câu nói hài ý nhị được người ta học thuộc lòng và trích dẫn thường xuyên trong những cuộc gặp gỡ thân hữu. Đó là một hiện tượng văn hoá có sức mạnh bùng nổ khắp nơi, vừa đem lại những giây phút thư giãn thoải mái như câu kết trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du: “Mua vui cũng được một vài trống canh”, giúp giải toả những căng thẳng trong cuộc sống bon chen vật lộn với miếng cơm manh áo hằng ngày, vừa trở thành khí cụ sắc bén giúp sửa chữa những cái sai cái xấu trong xã hội. Mahatma Gandhi viết: “Óc khôi hài là cây gậy giữ thăng bằng khi chúng ta đang bước đi trên sợi dây cuộc đời. Nếu chúng tôi không có óc khôi hài thì chắc chắn chúng tôi đã tự tử lâu rồi”.
Trong những nền văn hoá cổ xưa, người giúp vui thường có địa vị ngang hàng với các tư tế. Cả tư tế và người giúp vui luôn luôn hiện diện để nhắc nhở dân chúng về các giá trị quan trọng của nền văn hoá. Tất cả các diễn viên hài đều có một điểm chung: họ có thể làm cho tâm hồn khán thính giả rung động. Cũng như các ngôn sứ, họ không chỉ lên án thế giới, nhưng một cách nào đó họ đem lại cho chúng ta một niềm hy vọng. Nụ cười khôi hài bao giờ cũng thân thiện và nhạy cảm, bao giờ cũng là dấu chỉ của văn hoá nhân loại.
Theo định nghĩa của Encyclopedia Britanica, tính khôi hài có thể được diễn tả như một cảm quan giúp chúng ta nhìn nhận cách khoan dung những cái nghịch thường, lập dị của cuộc đời, và rồi chúng ta dùng lời nói, văn chương hay những loại hình nghệ thuật khác để nói lên cảm quan đó. [2] Để có một định nghĩa ngắn gọn về óc khôi hài, ta có thể nói như sau: khôi hài chính là khả năng biết cười trong mọi hoàn cảnh.
Tại Tây phương, từ thế kỷ XIX, óc khôi hài có thể được kể vào số các đức tính cột trụ của những người nói tiếng Anh. Khôi hài cho thấy một nét đẹp nhất của nếp sống Anh Mỹ. Những nền văn hoá này đã cho ra đời các vĩ nhân hài hước như Dickens chẳng hạn. Người Trung Hoa có những câu châm ngôn rất dễ thương về nụ cười: “Người không biết mỉm cười thì không nên mở cửa hàng”; “một nụ cười không đáng giá là bao nhưng làm nên tất cả”; “nụ cười chỉ trong khoảnh khắc, nhưng âm hưởng của nó trải dài cả một đời người”. Người Việt Nam chúng ta cũng thường nói: “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ!”
Dĩ nhiên có nhiều sắc thái hàm ẩn trong nụ cười. Có nụ cười bí hiểm nhằm che giấu linh hồn mình hơn là bộc lộ. Có nụ cười hoài nghi nhằm nói lên sự ngờ vực đối với tha nhân và tình trạng đề cao cảnh giác nội tâm của mình, hay sự bất cần của mình đối với tất cả những gì xung quanh. Có nụ cười khinh miệt diễn tả thái độ trịch thượng của mình đối với tha nhân. Có những nụ cười mỉa mai, nhạo báng do sự kém cỏi của tâm hồn. Nó không xây dựng được gì cả, chỉ phá huỷ.
Nhưng đó chỉ là nhữnh hình thức băng hoại của nụ cười. Đúng ra nụ cười chỉ có thể được sử dụng để mạc khải cái ngã thâm sâu của mình với tất cả sự thân tình. Trường hợp các em bé chứng tỏ điều ấy: bao lâu các em không cười, các bà mẹ có cảm tưởng như chỉ có một nửa con người của các em thôi. Các bà cưng chiều, âu yếm, và khi nụ cười xuất hiện trên đôi môi đứa bé, các bà cảm thấy sảng khoái tuyệt vời. Một tâm hồn bé thơ vừa tự bộc lộ. Nụ cười là một bông hoa mà Thiên Chúa đã sớm đặt trên môi miệng chúng ta ngay từ thời thơ ấu. Trước khi biết diễn tả bằng bất cứ cách nào, trẻ thơ đã biết nhoẻn miệng cười, và cái cười của nó làm cho mọi người được sung sướng. Trước khi con người làm bất cứ việc gì, họ đã biết nô đùa. Nụ cười được trao ban cho chúng ta để chúng ta nhờ nụ cười có thể dâng hiến cái ngã thâm sâu của chúng ta cho tha nhân và làm cho tha nhân cảm thấy sảng khoái với sự hoà hợp tâm hồn của chúng ta và của họ.
Giá trị nhân bản và văn hoá của nụ cười thật là rõ ràng. Tiếng cười được mệnh danh là dòng nhạc của Thiên Chúa. Tiếng cười đó vang lên trong sân trường vào giờ giải lao, trong một vườn trẻ, trong một cuộc họp mặt của các bạn trẻ. Tiếng cười đã được Victor Hugo gọi là những hạt ngọc trên môi. Nhưng óc khôi hài đích thực không thể trở thành thái quá. Nó không bao giờ được mang tính khinh miệt, không bao giờ được biến thành châm chích hoặc mỉa mai, không bao giờ được mang tính vô luân hay tục tĩu. Bởi lẽ óc khôi hài chính là nụ cười của tình yêu trong sáng.
Sự khôi hài xuất hiện đúng lúc có thể giúp ngăn lại khuynh hướng muốn bi thảm hoá những chuyện lặt vặt, và trong trường hợp có những hoàn cảnh bi thảm thực sự, thì sự khôi hài giúp đưa tình trạng bi thảm đó trở về với những mức độ tương đối có thể chịu đựng được, đồng thời giúp ta nắm vững những năng lực tinh thần để có thể đương đầu. Chúng ta hãy biết cười, vì theo lời Đức Hồng y Suenens, nụ cười là sức mạnh đích thực, không chỉ hấp dẫn người khác mà còn trấn tĩnh chính bản thân. Vì thế, Maguerite Baur đã khuyên: “Hãy cười vui vẻ vào những ngày đẹp trời, cười can đảm vào những ngày u ám. Đừng để mất đi tí nào những niềm vui nho nhỏ là những tia sáng của cuộc đời ta”.
Dĩ nhiên người ta có thể dùng sự châm biếm để chỉ trích sự xấu. Kinh Thánh cũng có nhiều trường hợp điển hình như vậy, và các nền văn hoá còn chất chứa nhiều ví dụ loại đó. Đồng thời cũng hoàn toàn hữu lý khi chúng ta nỗ lực để có thể cười được trước những áp lực bất công. Đối với một người nào đó quá quen với một thói xấu hung ác, người ta cũng được phép dùng sự châm biếm trong một mức độ nào đó để giải toả ảnh hưởng của họ. Đức ái buộc ta phải bảo vệ những người vô tội và yếu ớt. Tuy nhiên, nhiều người có thể vì bị châm biếm mà trở thành khép kín, cô lập, đến độ trốn tránh tất cả mọi người. Vì vậy, ngay cả trong trường hợp cần phải sử dụng sự khôi hài để sửa lỗi người khác, chúng ta vẫn phải giữ sự hoà nhã vui tươi biểu lộ một lòng yêu mến chân tình đối với họ.
Lần nọ, Cha Vianney gặp một bà trong xứ đến chào ngài. Biết bà là người lắm mồm lắm mép, nói huyên thuyên suốt ngày, ngài liền hỏi:
– Trong suốt năm có tháng nào bà nói ít hơn mọi tháng không?
Bà ta bỡ ngỡ trả lời:
– Thưa cha, con thì quen thói rồi, tháng nào con cũng nói như nhau cả.
– Không, có một tháng bà nói ít hơn. Bà biết tháng nào không?
Bà ngẩn ngơ:
– Tháng nào, thưa cha?
– Tháng hai, vì tháng đó chỉ có 28 ngày.
Tóm lại, một nụ cười không hao tốn gì, nhưng đem lại rất nhiều điều đáng giá. Nụ cười làm phong phú những người tiếp nhận mà không làm cho người biếu tặng nó bị nghèo nàn đi. Khi cười người ta chỉ mất một khoảng thời gian rất ngắn, nhưng đôi khi ký ức về nó kéo dài mãi mãi. Không ai quá giàu để không cần đến nụ cười và cũng không ai quá nghèo đến độ không cho nó được. Nụ cười tạo ra niềm hạnh phúc trong gia đình, và là dấu hiệu hữu hình của tình bạn. Nụ cười mang lại thư giãn cho người mệt mỏi, niềm vui cho người bị thất vọng, sưởi ấm tâm hồn buồn phiền và là một loại thuốc giải độc tự nhiên mỗi khi gặp rắc rối. Khi gặp một người nào đó quá mỏi mệt đến độ không thể mỉm cười với chúng ta thì chúng ta hãy tặng người ấy nụ cười của mình.
3.2. Vai trò của óc khôi hài và của nụ cười trong đời linh mục
Óc khôi hài và nụ cười là những gì thuộc nhân bản, các linh mục chỉ có thể vun xới óc khôi hài khi vun xới tính nhân bản và việc sống chung huynh đệ. Như thế, phải chăng óc khôi hài rất cần thiết trong cộng đoàn linh mục? Thường người ta quan niệm tu hành là một cuộc đời khắc khổ. Đối với Phật giáo, kẻ tu hành đã xuống tóc, khoác áo nâu sồng, thì làm sao còn tìm vui thú? Truyền thống Kitô giáo cũng không khác gì truyền thống Phật giáo. Những nhà tu hành đầu tiên đã lánh đời, tìm vào sa mạc, sống đời nhiệm nhặt, như Simon cột. Hình ảnh ông thánh bà thánh phải có nét mặt nghiêm nghị, nếu không muốn nói là sầu bi.
Thế nhưng, nụ cười là một trong những món quà tuyệt vời nhất Thiên Chúa gửi đến cho con người. Đời sống linh mục chẳng những không bóp chết mà còn phải phát huy tất cả những gì Thiên Chúa ban. Ngoài ra, nụ cười còn là dấu chỉ của ân sủng. Quả thế, ĐHY J. Ratzinger đã viết: “Ở đâu óc khôi hài không còn, thì ở đó chắc chắn cũng không còn tinh thần của Đức Kitô, vì niềm vui là dấu chỉ của ân sủng”. [3]
Hơn nữa, nếu linh mục là con người được coi là siêu thoát, thì linh mục đồng thời cũng phải là con người biết khôi hài, bởi vì sự khôi hài ăn rễ sâu trong sự siêu thoát của nhân cách đối với hoàn cảnh sống. Theo nghĩa ngày, mỗi vị thánh trong tiềm năng là một người có óc khôi hài, cả khi xem ra như ngài rất nghiêm nghị, ít nói, đối với những ai không đủ khả năng để hiểu sự khôi hài của ngài.
Ai cũng ghê sợ bệnh phong cùi, nhưng khi Cha Đamiêng, vị tông đồ nổi tiếng của các bệnh nhân phong tại đảo Molokai, thấy mình bị nhiễm bệnh ấy thì vui vẻ nói: “Tuyệt, từ nay thay vì bắt đầu bài giảng bằng câu: anh chị em thân mến, tôi sẽ nói là: thưa các bạn phong thân mến của tôi”. Các thánh dẫn ta tới sự thánh thiện trong tươi cười. Người ta kể lại rằng Thánh Thomas More lúc lên máy chém đã nói với lý hình: “Xin hãy giúp tôi bước lên, còn lúc xuống thì tôi xuống một mình cũng được”.
Khi hoàng đế Napoléon của Pháp lên đến tột đỉnh tham vọng, ông tuyên bố sẽ phá đổ ngai toà Giáo hoàng và Hội Thánh. Nghe thế, Đức Hồng y Consalvi góp ý: “Tâu hoàng đế, trong suốt 18 thế kỷ nay, hàng giám mục chúng tôi chưa phá nổi Hội Thánh vì những lỗi lầm của mình, thì làm sao một mình ngài có thể phá nổi trong vài năm”.
Sau thời Cách mạng Pháp 1789, tinh thần bài giáo sĩ tại nước này đang lên cao. Một hôm, có hai sĩ quan từ lâu đã mất đức tin đang đi trên đường thì nhìn thấy từ đàng xa Cha Thánh Gioan Maria Vianney với chiếc áo dòng đen đang đi ngược chiều về phía mình. Hai viên sĩ quan mới nói với nhau: “Nghe đồn rằng ông cha này đạo đức thánh thiện và bác ái, vậy chúng ta hãy thử xem ông ta thực sự có lòng thương người như người ta đồn đãi hay không!”. Vậy khi cha thánh đến gần, hai chàng sĩ quan giả bộ người lỡ đường và nói với ngài rằng:
– Thưa cha, chúng con là những binh sĩ về phép, dọc đường bị trộm móc túi hết cả tiền bạc và phải nhịn đói, vậy xin cha giúp chúng con một ít tiền để mua thức ăn cho đỡ đói.
Cha thánh lộ vẻ lúng túng, đoạn ngài bảo hai chàng chờ một chút, rồi ngài tiến đến một bụi rậm. Một ít phút sau ngài bước ra tiến lại gần hai chàng thanh niên với chiếc quần tây được xếp ngay ngắn trên tay và nói:
– Tiền bạc thì tôi không có, nhưng hai anh có thể cầm đỡ chiếc quần này của tôi đem bán, mặc dù nó cũ nhưng vẫn còn bán được đấy!
Lúc ấy hai chàng sĩ quan quá xúc động mới thú thực rằng họ chỉ có ý thử ngài thôi. Hai chàng cũng cho ngài biết họ đã bỏ đức tin từ lâu, nay nhìn thấy tấm gương sáng của ngài, họ muốn xin xưng tội và hứa sẽ giữ đạo đàng hoàng. Bấy giờ, Cha Thánh ngước mắt lên trời và nói:
– Lạy Chúa, Ngài thật quá ư quảng đại! Con chỉ hy sinh có 1 chiếc quần cũ mà Chúa lại ban cho con những 2 linh hồn!
Trong cộng đoàn linh mục cũng cần đến những người có óc khôi hài để tạo ra những nụ cười, khiến cho bầu khí sống chung đỡ căng thẳng vì những va chạm hằng ngày. Một chủng viện không có tiếng cười cũng giống như một khu rừng không có tiếng chim ca. Một cộng đoàn thiếu vắng người nghệ sĩ cũng giống như một khu vườn không có bông hoa. Không có cảnh nào vui và gây nhiều ấn tượng cộng đoàn hơn cảnh các linh mục trong những lúc gặp gỡ nhau nói cười rộn rã, câu chuyện nổ dòn như pháo Tết, những tiếng nổ không làm chết ai, nhưng đem lại niềm vui và những kỷ niệm êm đềm khó quên. Tiếng cười tự nhiên có sức hợp đoàn khiến mọi người muốn tham gia. Khi thấy có mấy chị em nữ tu đang nói cười vui quá, một chị ở đàng xa tiến lại và nói: “Các chị cười gì cho em cười với!”.
Thay vì những trò đùa châm biếm hướng về kẻ khác, một hình thức khôi hài có khả năng tạo thân thiện, đó là sự khôi hài hướng về chính mình. Những bài thơ tự trào của Nguyễn Khuyến hay Nguyễn Công Trứ thật là hay và có tác dụng vạch trần những cái xấu, cái dở, cái dỏm, bắt đầu từ chính mình. Khi chúng ta thành thực làm cho mình trở thành mục tiêu của sự khôi hài, về những cái điên rồ của mình, như cố làm ra vẻ quan trọng, cố trở nên một cái gì khác với chính mình, lúc đó chúng ta đạt được một sự quân bình. Ai có tinh thần khôi hài thì cười nhạo chính mình, ai có trí xảo thì cười nhạo người khác. Người ta thường kể những giai thoại vui tươi ý nhị như thế trong cuộc đời của Cha Thánh Gioan Maria Vianney.
Cha Thánh Gioan Maria Vianney lúc còn là chủng sinh, học rất chậm. Ngày kia một giáo sư thần học thừa lệnh đức giám mục đến sát hạch ngài, để xem thử ngài có đủ khả năng làm linh mục không, nhưng ngài đã không trả lời được câu hỏi nào, khiến vị giáo sư phải nổi nóng và đập bàn quát:
– Vianney, anh dốt như con lừa! Với một con lừa như anh, Hội Thánh hy vọng làm nên trò trống gì?
Nhưng ngài khiêm tốn và bình tĩnh trả lời:
– Thưa thầy, ngày xưa ông Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại được 3.000 quân Philitinh. Vậy với cả con lừa như con đây, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?
Lần kia, Cha Thánh Vianney thấy ở trước sân nhà thờ có một quầy bán ảnh tượng và có cả hình của ngài nữa. Ngài liền dừng lại, cầm lấy tấm hình của ngài, đưa lên cao cho mọi người xung quanh xem và nói: “Thiên hạ dại dột thật, cái hình nhăn nheo như con khỉ khô này mà cũng phải mua mất một đồng quan!”. Các người đứng xung quanh được dịp cười lăn chiêng. Cha Vianney cũng cười, giao trả lại tấm ảnh rồi bước vào nhà thờ.
Niềm vui và nụ cười rất cần thiết cho cuộc đời linh mục và cho sứ vụ tông đồ: nó giúp cho tình huynh đệ ngày càng lớn lên như cây cối dưới ánh sáng mặt trời và giúp cho công việc mục vụ tông đồ dễ đạt kết quả. Guy de Larigaudie đã nói: “Một khuôn mặt vui vẻ, đó là một mặt trời rặng rỡ. Nó soi sáng và sưởi ấm hết mọi người nó gặp gỡ”. Niềm vui và nụ cười phát xuất từ một tâm hồn lạc quan, khiến cho bất cứ điều tồi tệ nào cũng có thể vượt qua hoặc chấp nhận dễ dàng. Ngoài ra, nơi người linh mục, niềm vui siêu nhiên phát xuất từ một tâm hồn trong sạch và từ tâm tình tri ân đối với Thiên Chúa, có sức giúp các linh mục trở nên giống Đức Maria trong cuộc đời dâng hiến: với tâm hồn trong trắng đơn sơ Mẹ thưa Fiat, với niềm vui tri ân Mẹ thưa Magnificat, và cuối cùng với tâm tình phó thác Mẹ Stabat vững vàng dưới chân thập giá.
HẾT
———————————————————
[1] J. RATZINGER, Thiên Chúa và Trần thế, Nhà Xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội, 2011, tr. 15.
[2] x. “Humor” trong Encyclopedia Britanica, quyển 11, 1959, tr. 885-887.
[3] J. RATZINGER, được trích dẫn trong B. HÄRING, Tự do và Trung thành trong Đức Kitô (Free and Faithful in Christ), tập III, do Lm. Dom. Nguyễn Đức Thông dịch, tr. 533.